Nghệ thuật lập luận trong Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi. THPT Sóc Trăng 25/11/2021. Không những là một áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc, Bình Ngô đại cáo còn là một minh chứng rõ nét cho ngòi bút chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi. Dưới
THÂN THẾ CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN TRÃI. Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia tộc nhiều đời là quan võ dưới nhiều triều đại. Dòng họ này có truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết, lập trường thương dân, đứng về
2. Thuyết minh về Nguyễn Trãi bài tham khảo số 2. Nguyễn Trãi (1380-1442) là bậc đại anh hùng dân tộc, là một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử nước nhà, là danh nhân văn hóa thế giới nhưng đồng thời cũng là người phải chịu những oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Tin nhanh, hình ảnh, video clip, bình luận mới về Nguyễn Trãi. Cập nhật nhiều tin tức độc quyền 24h về Nguyễn Trãi nhanh và nóng nhất liên tục trong ngày
KgWV. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn có đóng góp vĩ đại vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai tức là Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh tiến sĩ năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi – Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao? Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan tức Thăng Long, Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người". Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề Gia Lâm. Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo". Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân – Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh Thăng Long chỉ là một túp nhà tranh góc thành Nam lều một gian. Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam. Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại tru di tam tộc khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".
An Giang Bình Dương Bình Phước Bình Thuận Bình Định Bạc Liêu Bắc Giang Bắc Kạn Bắc Ninh Bến Tre Cao Bằng Cà Mau Cần Thơ Điện Biên Đà Nẵng Đà Lạt Đắk Lắk Đắk Nông Đồng Nai Đồng Tháp Gia Lai Hà Nội Hồ Chí Minh Hà Giang Hà Nam Hà Tĩnh Hòa Bình Hưng Yên Hải Dương Hải Phòng Hậu Giang Khánh Hòa Kiên Giang Kon Tum Lai Châu Long An Lào Cai Lâm Đồng Lạng Sơn Nam Định Nghệ An Ninh Bình Ninh Thuận Phú Thọ Phú Yên Quảng Bình Quảng Nam Quảng Ngãi Quảng Ninh Quảng Trị Sóc Trăng Sơn La Thanh Hóa Thái Bình Thái Nguyên Thừa Thiên Huế Tiền Giang Trà Vinh Tuyên Quang Tây Ninh Vĩnh Long Vĩnh Phúc Vũng Tàu Yên Bái Bạn cần biết Tiện ích Việc làm Liên hệ Thời sự Thế giới Kinh tế Đời sống Sức khỏe Giới trẻ Giáo dục Du lịch Văn hóa Giải trí Thể thao Công nghệ - Game Xe Video Tiêu dùng Thời trang trẻ Kỹ năng sống Ngẩn ngơ với Phoenix_V flagship store Với sự phát triển liên tục lớn mạnh và rộng khắp của thương hiệu thời trang Phoenix_V do siêu mẫu, nhà thiết kế Vũ Thu Phương làm Chủ tịch và Giám đốc sáng tạo tại nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy công việc kinh doanh và sáng tạo của thương hiệu Phoenix_V và nhà thiết kế Vũ Thu Phương đang lên như diều gặp gió. Hotline 0906 645 777 Liên hệ quảng cáo 0908 780 404 Tổng biên tập Nguyễn Ngọc Toàn Phó tổng biên tập Hải Thành Phó tổng biên tập Đặng Thị Phương Thảo Phó tổng biên tập Lâm Hiếu Dũng Ủy viên Ban biên tập - Tổng Thư ký tòa soạn Trần Việt Hưng Giấy phép xuất bản số 110/GP - BTTTT cấp ngày © 2003-2023 Bản quyền thuộc về Báo Thanh Niên. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.
Giới thiệu tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Trãi, con đường hoạt động cách mạng, quan điểm sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu của viết này được đăng tại không được copy dưới mọi hình thức. Nguyễn Trãi là một trong những Danh nhân văn hóa thế giới được rất nhiều người biết đến và nể phục, ngoài là một nhà thơ nhà văn lỗi lạc, ông còn là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho dân tộc. 1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai sinh năm 1380 và mất năm 1442, quê gốc ở Hải Dương. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống yêu nước, yêu văn học. Cha là Nguyễn Phi Khanh – một học trò nghèo chăm chỉ, học giỏi và đỗ đạt tiến sĩ còn mẹ là Trần Thị Thái – con gái của một gia đình quý tộc. Thuở nhỏ Nguyễn Trãi sống với mẹ và ông ngoại, năm lên 6 tuổi thì mẹ mất, ông được ông ngoại trực tiếp dạy dỗ và rèn luyện. Bốn năm sau ông ngoại ông cũng qua đời 1390, lúc này ông được cha đón về làng Nhị Khê ngày nay là thủ đô Hà Nội để sinh sống và học tập. Nhờ thừa hưởng tấm lòng vì dân vì nước từ cha và ông ngoại nên ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã ý thức được lòng yêu nước thương viết này được đăng tại [free tuts .net] Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh ngày nay gọi là tiến sĩ, lúc bấy giờ cả hai cha con ông đều được triều đình trọng dụng và cho làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, nước ta bị giặc Minh sang xâm lấn, cha ông bị bắt đem về Trung Quốc. Ông cũng bị giặc Minh bắt giữ nhưng đã tìm cách trốn thoát, từ đây ông bắt đầu tìm đường đánh giặc cứu nước. Sau một thời gian tìm hiểu ông đã ngộ ra được một lý tưởng đó là muốn cứu nước phải dựa vào dân. Ông cùng với Lê Lợi bàn mưu, tính kế chống giặc và góp công rất lớn vào sự chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi quét sạch quân thù ông tiếp tục bắt tay vào xây dựng đất nước với mong muốn đất nước sẽ thái bình thịnh trị. Ông cũng chính là người góp phần xây dựng nên lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Vào năm 1442, sau khi vào thăm Nguyễn Trãi trên đường về nhà vua băng hà đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên, bọn gian tà ở triều đình vu khống cho ông âm mưu giết vua và buộc ông phải nhận án tru di tam tộc. Đây là vụ án bi thảm nhất trong thời kỳ phong kiến lúc bấy giờ. Mãi đến năm 1464, ông mới được Lê Thánh Tông minh oan và giải được nỗi oan ức này. 2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi Ngoài là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ văn của ông thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và tình yêu đối với thiên nhiên. Một số tác phẩm về quân sự và chính trị nổi tiếng, mang lại rất nhiều bài học ý nghĩa đó là “Quân trung từ mệnh tập”, “Chiếu biểu viết dưới triều Lê” và đặc biệt là áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo "- được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Ông còn sáng tác rất nhiều tác phẩm về các chủ đề khác nhau như về lịch sử thì có "Lam Sơn thực lục", về địa lý thì có "Dư địa chí", về văn học thì có 2 tập thơ trữ tình rất xuất sắc là " Ức trai thi tập” và “Quốc Âm thi tập". Hầu hết các tác phẩm của ông đều được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Thơ trữ tình của ông chân thực, giản dị, mang hơi thở cuộc sống và rất gần gũi với thực tế, qua đó khắc họa được hình tượng người anh hùng vĩ đại, yêu nước thương dân. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Trãi đã luôn cống hiến cho sự phát triển của văn học và chính trị của dân tộc. Cuộc đời của ông nhiều đau thương, bị thảm nhưng đã để lại tiếng thơm muôn đời và sự kính phục, ngưỡng mộ của thế hệ sau. Ông xứng đáng là vị anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của thời đại.
Lượt xem STUDY ON IDEOLOGICAL LITERARY THEORY OF NGUYEN TRAI Tác giả bài viết NGUYỄN CÔNG LÝTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn VNU-HCM TÓM TẮT Nguyễn Trãi không chỉ là nhà quân sự – chính trị – ngoại giao thiên tài, nhà văn nhà thơ lỗi lạc mà còn là nhà tư tưởng lý luận văn nghệ với những quan niệm tiến bộ và đúng hướng. Khác với một vài thi hào thời trung đại, họ thường thể hiện tư tưởng và quan niệm về văn học nghệ thuật qua các bài Tự, Bạt, hay những đoạn thẩm bình thì Ức Trai tiên sinh lại thể hiện qua thơ. Bài viết này, thông qua những sáng tác trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập để khái quát và chỉ ra có hệ thống những quan niệm, tư tưởng lý luận văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi. Từ khoá tư tưởng, lý luận, văn nghệ, Nho giáo, Nguyễn Trãi. ABSTRACT Nguyen Trai is not only military – political – diplomatic genius, poet, eminent poet, but also the ideological and literary theorist with the notion of progress and on track. Unlike some medieval poets, they often expressed thoughts and conceptions of literature and art through Preface Tu, Afterword Bat, or the average piece evaluating, Uc Trai expressed through poetry. This article, through the works of Uc Trai on Uc Trai poetry collection and Quoc am poetry collection to generalize and indicate systematic notions, ideological literary theories, and Confucianism in Vietnam of Nguyen Trai. xx x 1. Giới thiệu Nguyễn Trãi 1380-1442 không chỉ là nhà văn nhà thơ lỗi lạc cắm mốc khai sáng nền văn học cổ điển Việt Nam, nhà văn hoá lớn, nhà quân sự và nhà ngoại giao kiệt xuất với những chiến lược chiến thuật nhất quán, mà còn là một nhà lý luận văn nghệ tiên phong. Cho dù ở lĩnh vực lý luận văn nghệ, Ức Trai không nêu tuyên ngôn hay phát biểu trực tiếp, nhưng qua những trước tác hiện còn, người đọc có thể chắt lọc được những tư tưởng lý luận văn nghệ cùng một số quan niệm mang tinh thần Nho giáo Việt Nam của tiên sinh. Sau vụ án Lệ Chi viên oan nghiệt mùa thu 1442, Nguyễn Trãi và gia tộc bị triều đình kết án tru di, nhưng sau đó không lâu, các triều đại phong kiến đều lần lượt minh oan cho ông. Chẳng hạn, vua Lê Nhân Tông 1442-1459, có lần đến Bí thư các và đọc được bản thảo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, nhà vua đã phát biểu rằng“Nguyễn Trãi là người trung thành, lấy võ giúp đức Thái Tổ dẹp yên loạn lạc, lấy văn giúp đức Thái Tông xây nền trị bình, văn chương đức nghiệp của ông, các danh tướng bản triều không ai sánh kịp. Không may vì kẻ phụ nhân gây biến để người lương thiện mắc oan, thật rất đáng thương! Nói xong, nhà vua đem quyển sách để ở đầu giường làm gốc cho việc chính trị”. Lời văn trên là do Lý Tử Tấn – bạn đồng khoa, đồng liêu với Nguyễn Trãi đã chép lại lời dụ của vua Lê Nhân Tông khi ông được lệnh biên tập lại Dư địa chí 1. Tiếp theo, vua Lê Thánh Tông 1460-1497 năm 1464 ban chiếu minh oan và cho tìm con cháu Nguyễn Trãi để bổ dụng chức quan, truy tặng tước Tán Trù bá và cấp 100 mẫu ruộng để tế tự. Năm Đinh Hợi 1467, nhà vua sai Trần Khắc Kiệm sưu tầm thơ văn của Nguyễn Trãi. Năm 1494, trong bài Minh lương tập Quỳnh uyển cửu ca, nhà vua có lời thơ ca ngợi“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” Tấm lòng Ức Trai sáng như văn chương của ông. Năm Nhâm Thân 1512, vua Lê Tương Dực 1510-1516 truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu. Năm Nhâm Ngọ 1822, vua Minh Mạng 1820-1841 triều Nguyễn truy phong cho ông tước Khê Quận công. Dịp này, nhà vua sai Dương Bá Cung là người cùng làng sưu tầm di văn của Ức Trai. Dương Bá Cung đã bỏ ra hơn 10 năm ròng mới hoàn thành bộ Ức Trai di tập gồm 07 quyển. Dương Bá Cung cùng Nguyễn Thâm người cháu trực hệ soạn lại gia phả Nguyễn Nhị Khê, viết lời Tựa. Năm Mậu Thìn 1868, triều Tự Đức, bản Ức Trai di tập được khắc in bởi Phúc Khê đường tàng bản. Đây là di sản thơ văn Nguyễn Trãi hiện còn đến hôm nay. Riêng tác phẩm Quân trung từ mệnh sau này đã được Trần Văn Giáp và Đào Duy Anh tìm thêm một số bức thư và văn kiện, bổ sung rồi sắp xếp lại văn bản do Dương Bá Cung đã sưu tầm. Năm Nhâm Dần 1962, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức kỷ niệm lần thứ 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi. Năm Canh Thân 1980, Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Uỷ ban Văn hoá – Giáo dục – Khoa học UNESCO của Liên Hiệp Quốc tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh, tôn vinh Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hoá thế giới. Về trước tác, qua nhiều lần sưu tầm qua các thời đại, được biết Nguyễn Trãi đã để lại những tác phẩm sau Quân trung từ mệnh tập 1423-1427, Băng Hồ di sự lục 1428, Bình Ngô đại cáo đầu 1428, Lam Sơn thực lục 1431, hiệu đính, Chí Linh sơn phú, Vĩnh Lăng thần đạo bi ký 1433, Dư địa chí 1435, Ức Trai thi tập2 , Quốc âm thi tập, Văn loại gồm các bài Chiếu, Cáo, Biểu, như Bình Ngô đại cáo 1428, Tạ ân biểu 1440, Thạch khánh đồ 1437, hiện thất lạc, Luật thư 1441-1442, hiện thất lạc, Giao tự đại lễ hiện thất lạc. 2. Một số quan niệm – tư tưởng lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi Trước khi tìm hiểu tinh thần Nho giáo Việt Nam trong tư tưởng lý luận văn nghệ của tiên sinh, thiết nghĩ cũng cần nên tìm hiểu cội nguồn những cơ sở hình thành quan niệm và tư tưởng lý luận văn chương của Nguyễn Trãi. Qua gia phả và qua cuộc đời, có thể thấy Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng từ dòng họ với truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết cứng cỏi, đấu tranh chống lại cường quyền, bạo lực, chống cái xấu, cái ác làm hại nước hại dân. Bên cạnh, nhà thơ còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng, văn hoá và học thuật cùng nhân cách của ông ngoại, của cha mẹ. Nguyễn Trãi đã từng sống đời sống thanh bần, giản dị ở Côn Sơn, ở Nhị Khê từ thuở thiếu thời, cũng như mười năm tìm đường cứu nước và mấy năm cáo quan về Côn Sơn, sống gần gũi với nhân dân nên tiên sinh đã thấu hiểu dân tình, đồng cảm những cảnh ngộ cùng khổ của nhân dân. Dù bản thân là nhà Nho, nhưng Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều nguồn văn hoá tư tưởng trong kinh sách Tam giáo Nho, Phật, Đạo; từ truyền thống văn hoá tư tưởng nhân dân; từ tinh hoa văn hoá thời đại Lý – Trần; từ thực tế cuộc sống bản thân, từ hiện thực thời đại lịch sử rồi dung hoà, nâng cao thành hệ tư tưởng của thời đại phục hưng dân tộc sau chiến thắng giặc Minh xâm lược. Tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng chung, tiêu biểu cho tư tưởng Đại Việt ở thế kỷ XV. Vì thế, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, tuy khái niệm này là của Nho gia nhưng quan niệm của ông có khác với Khổng Mạnh, và khác xa với Tống Nho, bởi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mang nội dung thân dân, vì dân. Yêu nước chính là yêu dân, khát vọng xây dựng đất nước hoà bình thịnh trị, nhân dân ấm no hạnh phúc với chủ trương “yên dân, trừ bạo”. * Bàn về quan niệm văn chương Nguyễn Trãi, ở nước ta, người đầu tiên đặt vấn đề này để tìm hiểu tương đối có hệ thống là GS. Đinh Gia Khánh với tiểu luận “Quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi” in trong công trình “Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi” NXB Khoa học Xã hội, 1982, tr. 204-214. Trong bài viết này, mặc dù tác giả không ghi thành đề mục cụ thể, song có thể nêu lên 5 điểm như sau 1. Mối quan hệ giữa nhà văn và người chiến sĩ; 2. Dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu vì nước vì dân; 3. Mối quan hệ giữa gốc và văn; 4. Nhà thơ tìm đề tài và cảm hứng từ cuộc sống; 5. Tác dụng của văn nghệ. Trước đó, trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2 1979, tại chương viết về tác gia Nguyễn Trãi, giáo sư cũng đã có trình bày sơ lược về quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi, và dĩ nhiên là chưa có hệ thống và đầy đủ như trong bài viết vừa nêu. Tiếp theo, trong hai chuyên khảo Về quan niệm văn học cổ Việt Nam 1982 và Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam 1997, GS. Phương Lựu ít nhiều có nhắc đến quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi. Cũng vậy, trong luận án Tiến sĩ của Lê Giang Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam 2001 và của Nguyễn Thanh Tùng Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX 2010 đều có nhắc đến quan niệm văn học của Nguyễn Trãi trong quan niệm chung về lý luận văn nghệ thời Hậu Lê sơ. Gần đây, trong công trình Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam 2013 của Phòng Lý luận văn học – Viện Văn học Việt Nam do Trịnh Bá Đĩnh chủ biên, có một mục viết về quan điểm lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi, mục này do Đinh Thị Minh Hằng thực hiện, nhưng xem ra ý tưởng và luận điểm lại không có gì mới nếu so với tiểu luận của GS. Đinh Gia Khánh viết từ năm 1980. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã có cùng đọc sâu văn chương Nguyễn Trãi, nhất là thơ, ở đây xin được trình bày có hệ thống về tư tưởng lý luận văn nghệ của Ức Trai tiên sinh. Qua văn chương, Nguyễn Trãi đã nêu lên mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống, sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ Thông thường các vị Tiên Nho hay phát biểu quan niệm của mình về văn chương qua các bài Tự, bài Bạt. Riêng Ức Trai tiên sinh đã phát biểu vấn đề này qua nhiều bài thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Ở đó, tiên sinh đã nêu lên mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống, sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ. Trong bài thơ Nôm “Tự thán số 2”, Nguyễn Trãi viết Non hoang tranh vẽ, chập hai ngàn, Nước mấy dòng thanh, ngọc mấy hoàn hòn. Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng, Cật chưng hồ hải đặt chưa an. Những vì thánh chúa âu đời trị, Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn. Thừa chỉ ai rằng thì thời khó ngặt, Túi thơ chứa chất mọi giang san. Nhà thơ đã tự hào vì túi thơ chứa chất cảnh đẹp của núi sông Tổ quốc, hồn thơ trĩu nặng tình đời. Từ đó, có thể nói ở Nguyễn Trãi, con người hành động nhà yêu nước thương dân và con người sáng tác người nghệ sĩ chân chính luôn gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau. Ức Trai là mẫu người điển hình về sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ đấu tranh vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì con người. Đây là minh chứng hùng hồn về mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống. Nhà thơ suốt đời chưa được ngả lưng an cật, luôn đeo nặng nỗi ưu tư vì nhân dân; suốt đời ôm ấp khát vọng lớn, lý tưởng cao cả là làm sao cho đất nước thái bình thịnh trị, với nỗi niềm “tiên ưu hậu lạc”. Qua văn chương, Nguyễn Trãi còn nêu lên trách nhiệm của người cầm bút và thể hiện niềm tự hào lớn về trách nhiệm này Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 5, thi hào viết Văn chương chép lấy đòi câu thánh, Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung. Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược, Có nhân, có trí, có anh hùng. Lời thơ có tính chất như một tuyên ngôn văn học, Nguyễn Trãi đã gắn văn chương với sự nghiệp, gắn nhiệm vụ làm văn với bổn phận làm người. Văn chương gắn liền với hành động “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”; văn chương gắn liền với phẩm chất “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Ở nước ta, muốn làm được như thế, muốn bảo vệ cuộc sống và khẳng định giá trị con người thì trước hết phải bảo vệ Tổ quốc, khẳng định dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi đã thể nghiệm sâu sắc nhất điều này. Nguyễn Trãi quan niệm văn chương phải là vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, vì hạnh phúc của dân Bài thơ Nôm Bảo kính cảnh giới số 56, nhà thơ viết Đao bút phải dùng tài đã vẹn, Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ Nam mãi mãi ra tay thước, Điện Bắc đà đà yên phận tiên. Ngày xưa, khi chưa chế tạo ra giấy và bút lông, người xưa dùng dao khắc chữ vào tre, trúc, gỗ. Thời Nguyễn Trãi đã có giấy bút nhưng ông vẫn dùng “đao bút” dùng đao làm bút. Cũng có thể hiểu ngòi bút là một thứ vũ khí chiến đấu đắc lực và có hiệu quả nhất. Thực tế là trong những năm tháng chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã dùng đao bút để viết các từ mệnh, các lệnh chỉ, mà người đời sau, khi sưu tập di sản thơ văn này đã gộp lại dưới nhan đề là Quân trung từ mệnh tập. Ở tập văn chương luận chiến này, Nguyễn Trãi đã dùng sức mạnh của văn chương chính nghĩa mà tập hợp lực lượng của ta để tấn công quân địch. Nhà thơ không ngừng “ra tay thước” tức trổ hết tài năng để chiến đấu, nhằm mục đích “vệ Nam” tức bảo vệ sông núi nước Nam. Muốn làm được điều ấy thì phải “điện Bắc” tức dẹp yên giặc Bắc, lúc này mới có thể xây dựng được cuộc sống ấm no, nhân dân an cư lạc nghiệp, sống đời thái bình, chẳng khác nào cuộc sống cảnh tiên an nhàn “đà đà yên phận tiên”. Rõ ràng, theo Nguyễn Trãi, ngòi bút phải là một thứ vũ khí chiến đấu vì Tổ quốc, vì dân tộc, vì nhân dân. Quan niệm này, trước Nguyễn Trãi người đọc có thể bắt gặp ở Lý Thường Kiệt khi vị tướng tài ba này đã có ý thức dùng bài thơ của Thần để khích lệ lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến đấu của quân đội Đại Việt trong cuộc chiến tranh vệ quốc trong chiến dịch năm 1075-1077. Hay như việc Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn với bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn cũng vậy. Ngay cả trong bài Tựa của một quyển sách mang nội dung tư tưởng triết học Phật – Thiền Khoá hư lục mà Trần Thái Tông đã viết “Văn bút tảo thiên quân chi trận; Vũ lược mưu bách kế chi công” văn bút như trận chiến quét sạch ngàn quân; Mưu lược như trăm kế đánh vào thành giặc để nêu lên một quan niệm văn chương cực kỳ hiện đại. Đành rằng chuyện làm thơ đuổi giặc thoái lỗ thi ở Trung Quốc cũng đã có từ trước như thơ của Lý Bạch chẳng hạn, nhưng ở Việt Nam ta đã tiếp thu và có biến đổi cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền của dân tộc. Qua văn chương, Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng thân dân, yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân Thơ văn Nguyễn Trãi còn thể hiện tư tưởng thân dân, nỗi niềm yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân. Dân theo quan niệm của thi hào là “manh lệ”, “xích tử”, “lê dân”, “thương sinh”, “sinh linh”. Đây là cái nhìn mới mẻ, thể hiện một quan niệm rất tiến bộ về nhân dân mà trước đó chưa một tác giả nào đề cập đến và nói nhiều như Nguyễn Trãi đã nói trong thơ văn của ông 3, ví dụ như trong Bình Ngô đại cáo – Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. – Hân thương sinh ư ngược diệm; Hãm xích tử ư hoạ khanh. – Manh lệ chi đồ tứ tập Tư tưởng thân dân, nỗi niềm yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân trên cơ sở của tinh thần dân chủ và rộng mở còn thể hiện rõ trong quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi. Văn nghệ phải gắn bó với hiện thực cuộc sống của quảng đại quần chúng nhân dân. Trong văn chương Việt Nam, Nguyễn Trãi là người đầu tiên nêu lên mối quan hệ giữa gốc và văn, giữa nội dung và hình thức Có lần vua Lê Thái Tông giao cho Nguyễn Trãi soạn lại lễ nhạc của triều đình, nhân lúc ông dâng biểu đề nghị vẽ lại chiếc khánh đá – một biểu tượng văn hoá – trên cơ sở đó xây dựng một nền âm nhạc chân chính mang đậm bản sắc dân tộc, qua lời tâu “Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Ngày nay, đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc không thể đứng vững được, không có văn không thể lưu hành được. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật khó được hài hoà. Xin bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho các nơi làng mạc, thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cái cỗi gốc của nhạc vậy”4. Sau đó, như Đại Việt sử ký toàn thư có chép “Nhà vua khen và chấp nhận, sai thợ đá ở huyện Giáp Sơn lấy đá tốt ở núi Kính Chủ để làm”5. Bàn về âm nhạc mà Nguyễn Trãi nhắc vua thi hành chính sách khoan dân, thân dân, để qua đó thể hiện rõ quan điểm văn nghệ của ông. Đó là mối quan hệ giữa “gốc” và “ văn”. Theo Nguyễn Trãi, “gốc” là nội dung tư tưởng cơ bản của văn nghệ, mà cái “gốc” này phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống sinh động và phong phú; “văn” là hình thức biểu hiện của văn nghệ. “Gốc” và “Văn”, nội dung và hình thức có mối quan hệ hữu cơ, ở đó nội dung quyết định hình thức. Xây dựng âm nhạc không phải chủ yếu và trước hết quan tâm đến “văn”, tức chú trọng hình thức, kỹ xảo, âm thanh mà phải quan tâm hàng đầu và chủ yếu là cái “gốc”, tức nội dung. Nội dung ấy là “hoà bình” chỉ sự yên bình, hài hoà của tâm hồn, của cuộc sống. Như vậy, từ mối quan hệ giữa „gốc‟ và „văn‟, giữa “hòa bình” và “thanh âm”, Ức Trai đã nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung và hình thức trong một tác phẩm văn nghệ, mà mối liên hệ này gắn bó chặt chẽ với hiện thực đời sống nhân dân. Vì thế, lời tâu ấy càng thể hiện sâu đậm tấm lòng ưu ái rừng rực “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” với dân với nước của Ức Trai tiên sinh. Nguyễn Trãi chủ trương nhà văn cần tìm đề tài và cảm hứng từ hiện thực cuộc sống, tức nêu lên quan niệm văn học phải phản ánh hiện thực đời sống Bài Tự thán số 3 Qua đòi cảnh chép câu đòi cảnh; Nhàn một ngày nên quyển một ngày. Điều đó có nghĩa là bất kỳ cảnh vật, đời sống nào cũng đều là đối tượng miêu tả, phản ánh của văn nghệ sĩ. Nguyễn Trãi còn yêu cầu nhà văn cần trổ hết tài năng để xây dựng tác phẩm; cần năng động, có khí phách hào hùng, tâm hồn dạt dào cảm hứng, tức cần khả năng tinh nhạy khi nhận thức và phản ánh hiện thực cuộc sống qua bài Tự thán số 19 Tài tuy chăng ngộ, trí chẳng cao, Quyển đến trong tay chí mới hào. Miệng khiến tửu binh phá luỹ khúc, Mình làm thi tướng đứng Đàn Tao. Cầm khua hết ngựa, cờ khua tượng, Chim bắt trong rừng, cá bắt ao. Còn có anh hùng bao nả nữa, Đòi thì vậy, dễ hơn nào. Bài thơ có vẻ trào lộng, nhưng đã thể hiện quan niệm của Nguyễn Trãi về văn chương. Ở đây, Ức Trai ví người làm thơ chẳng khác nào người làm tướng, dù có ít tài trí nhưng nếu quyết chí làm được thì như bậc anh hào. Người làm thơ chính là vị thi tướng mà chiến địa là Tao đàn, khi uống rượu vào thì sẽ phá tan cái luỹ khúc của làng say. Người làm thơ cần trổ hết tài sức, cảm xúc để thể hiện như đánh đàn thì phải trố hết ngón, chơi cờ thì phải đi hết nước. Đây là công việc quen thuộc, cũng như người đi săn bắt chim trong rừng, người câu cá bắt cá dưới ao, tức ý nói nhà thơ phải tóm thâu tất cả thế giới hiện thực vào trong túi thơ của mình. Nếu nhà thơ làm được như thế thì quý biết bao, còn có gì anh hùng hơn. Như vậy, theo Ức Trai, nhà văn chân chính cần có tính năng động, có cảm hứng dồi dào, tâm hồn giàu sức sống, khí phách hào hùng. Người đọc có thể tìm thấy ý tưởng vừa nêu trong bài thơ chữ Hán “Hý đề” Đề chơi nước, núi, hoa, chim dưới con mắt người đời thì nhiều khi chỉ là bình thường, nhưng dưới cái nhìn của thi nhân thì đó là nguồn thi liệu vô cùng phong phú để thi nhân cảm hứng và tái hiện đề thơ, qua hai câu kết Nhãn để nhất thì thi liệu phú, Ngâm ông thuỳ dữ thế nhân da? Trước mắt, trong một lúc, thi liệu đến dồi dào như thế, Thì trong đời ai dễ sánh được với thi nhân?. Bài Trần tình số 6, ông viết Hàng chim ngủ khi thuyền đỗ, Vầng nguyệt lên thuở nước cường. Mua được thú màu trong thuở ấy, Thế gian hay một khách văn chương. Thế gian này cần có những khách văn chương, tức nhà văn nhà thơ để có thể mua được, vẽ lại được những “thú màu”, những cảnh đẹp cho mọi người, cho độc giả. Bài Mạn thuật số 13 có câu Khách đến, vườn còn hoa lác, Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào. Thơ vừa làm xong, trăng đã bước vào nhà. Thơ gọi trăng vào nhà hay trăng đã gợi thi hứng cho thi nhân? Ngoại cảnh đã kích thích lôi cuốn nhà thơ. Điều này trong vài bài thơ khác, Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện ý vừa nêu, như hai câu đầu bài Vọng Doanh Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền, Thi cảnh liêu nhân, vãn hứng thiên. Chiều hôm đến Vọng Doanh buộc chiếc thuyền thơ, Cảnh nên thơ ghẹo người, hứng buổi chiều lôi cuốn. Hoặc trong bài Hạ nhật mạn thành, nhà thơ viết ở hai câu thực Song tiền hoàng quyển công môi thuỵ, Hộ ngoại thanh sơn cố sách ngâm. Trước cửa sổ, quyển sách vàng khéo làm mồi ngủ, Ngoài cửa ngăn, núi xanh vẫn giục giã ngâm thơ. Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh và đề cao tác dụng của văn nghệ Trong bài Chu trung ngẫu thành, bài 2 có câu “Ngư ca tam xướng, yên hồ khoát /Mục địch nhất thanh, thiên nguyệt cao”. Một làn điệu dân ca, một khúc dân nhạc đã tác động đến thiên nhiên, hay thi nhân tưởng tượng, cảm giác như thế khi lắng nghe câu hát của ông chài, tiếng sáo của người chăn trâu? Làn điệu dân ca toả ra trên mặt nước, lan dần ra vô biên mà tác giả cảm nhận như mặt hồ rộng thêm; Tiếng sáo vút lên trên bầu trời đêm trăng mà thi nhân ngỡ là trăng như cao thêm trên bầu trời lồng lộng. Câu thơ sau Khách lạ đến ngàn, hoa chửa rụng; Câu thần ngâm dạ, nguyệt càng cao Thuật hứng, bài 7 cũng có ý tương tự như trên. Đây là một quan niệm rất chính xác và sâu sắc về tác dụng của văn nghệ, trong đó có thơ văn, mà qua thực tiễn cuộc sống, thực tế chiến đấu và thực tiễn sáng tác vô cùng đa dạng, phong phú của chính Nguyễn Trãi, nên nhà thơ đã nhận chân được ý nghĩa, tác dụng của văn nghệ đối với đời sống của dân tộc, của nhân dân, và đối với tâm hồn con người. 3. Lời kết Tóm lại, qua những gì trình bày ở trên, có thể khẳng định Nguyễn Trãi không chỉ là nhà thơ nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam – người khai sáng nền thơ ca cổ điển Việt Nam mà còn là nhà lý luận văn nghệ kiệt xuất với một quan niệm văn học đúng đắn và tiến bộ mang bản sắc Việt Nam. Tư tưởng lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi đến nay vẫn còn nguyên giá trị, trong đó có một số quan niệm, tư tưởng rất gần gũi với tư tưởng lý luận văn học hiện đại. CHÚ THÍCH 1 Nguyễn Trãi, Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, Quyển VI, tờ 33a. 2 Tập thơ chữ Hán của Ức Trai có 107 bài. Xin xem Nguyễn Công Lý, Thêm hai bài thơ chữ Hán của Ức Trai tiên sinh, Tạp chí Hán Nôm, số 5-2011. 3 Theo thống kê của GS. Đinh Gia Khánh thì danh từ “dân” được Nguyễn Trãi dùng trong thơ văn đến 155 lần. 4 Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ thực lục, quyển XI, tờ 35 a, 35 b – Bản dịch của Viện Sử học, tập 3, NXB Khoa học Xã hội, 1972, trang 113; và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 17, tờ 3 a. 5 Sđd, bản dịch, trang 113. 6 Dưới triều nhà Hồ, Nguyễn Ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh và ra làm quan, được nhà Hồ bổ nhiệm chức Hàn lâm viện Học sĩ chức quan đứng đầu Viện Hàn lâm đời Hồ kiêm Tế tửu Quốc tử giám chức học quan đứng đầu trường đại học ở kinh đô; Nguyễn Trãi được bổ chức Ngự sử đài chánh chưởng chức quan phụ trách giữ ấn triện của Ngự sử đài, có thể tương đương với Chánh văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay. 7 Như trường hợp Bùi Dương Lịch chẳng hạn, ông làm quan ở ba triều đại Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn. Vì thế người đương thời triều Nguyễn có thơ chế giễu Cảnh Hưng cử Tiến sĩ/ Tây nguỵ nhập Hàn lâm/ Bản triều vi Đốc học/ Dữ thế cộng phù trầm. 景興舉進士,西偽入 翰林,本朝為督學, 與世共浮沉. Đời Cảnh Hưng được đỗ Tiến sĩ/ Triều Tây Sơn làm ở viện Hàn lâm/ Đến triều ta triều Nguyễn làm Đốc học/ Ông ta thật đúng là chìm nổi với cuộc đời. Dẫn dụ một trường hợp như thế để thấy sự linh hoạt và uyển chuyển của các nhà Nho Việt Nam trong việc tiếp nhận và vận dụng chữ “Trung”. Nguồn Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, Số 4 29-2016 Thánh Địa Việt Nam Học
Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ năm, 4/5/2017, 1800 GMT+7 Là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, một trong 14 anh hùng dân tộc, nhưng Nguyễn Trãi từng phải chịu án oan thảm khốc và về sau được vua Lê Thánh Tông khôi phục danh dự. Tranh vẽ chân dung Nguyễn Trãi. Câu 1 Nguyễn Trãi làm quan dưới triều đại nào? a. Hậu Lê b. Hồ, Hậu Lê c. Trần, Hồ, Hậu Lê Thanh Tâm Trở lại Giáo dụcTrở lại Giáo dục Chia sẻ
bình luận về nguyễn trãi